Tắc kè đá
Phân loại:
Thành phần khác
Mô tả:
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cây tắc kè đá.
Tên khác: Tổ rồng, Tổ phượng, Cốt toái bổ, Bổ cốt toái.
Tên khoa học: Drynaria bonii Christ thuộc, Họ Ráng (Polypodiaceae), Lớp Dương xỉ ( Polypodiaceae). Ở Việt Nam có mấy loài Tắc kè đá đều được dùng làm thuốc như: Drynaria fortunei J. Sm, Drynaria bonii Christ.
Đặc điểm tự nhiên
Tắc kè đá là loài thực vật sống cộng sinh trên đá hoặc những thân gỗ lớn. Thân rễ có dạng mầm như củ gừng, có lông và được phủ vảy màu vàng bóng.
Cây có 2 dạng lá trên cùng một cây. Một loại là lá hứng mùn thì khô, màu nâu ôm chặt vào thân và có hình trái xoan. Còn 1 loại lá khác là lá bình thường. Lá này thường dài 25 – 45cm, phiến lá màu xanh, lá xẻ thùy lông chim, mỗi lá gồm có 3 – 7 cặp lông chim, cuống dài 10 – 20cm. Lá hứng mùn có hình trái xoan, thường khô, có màu nâu và ôm lấy thân. Mặt dưới lá có các túi bào tử nằm rải rác không đều. Cốt toái bổ sinh sản bằng cách phán tán những bào tử này ra môi xung quanh vào tháng 5 - 6 hằng năm.
Drynaria fortunei J. Sm có lá xẻ răng cưa, bào tử xếp đều đặn còn Drynaria bonii Christ có mép lá lượn sóng, bào tử sắp xếp không đều.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây mọc hoang ở dọc suối, núi đá và trên những thân cây gỗ, những nơi có tiết trời ẩm thấp quanh năm. Ở nước ta Tắc kè đá tập trung nhiều ở các vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, Đồng Nai, An Giang, Quảng Trị và Lâm Đồng. Ngoài ra cây Tắc kè đá cũng mọc nhiều ở Miền Trung và Miền Bắc nước Lào và Campuchia.
Thu hái thân rễ Tắc kè đá gần như quanh năm. Nhưng thời điểm thu hái tốt nhất là vào tháng 4 – 9 hằng năm.
Sau khi thu hoạch những thân rễ củ già, chọn lựa những củ có chất lượng tốt đem cạo bỏ lông, loại bỏ hết lá, sau đó thái phiến nhỏ và đem phơi khô. Khi dùng đem đốt nhẹ cho cháy hết lông phủ bên ngoài, đem thân rễ ủ cho mềm rồi tiếp tục tẩm mật và sao vàng tùy từng loại bệnh. Có thể dùng đơn độc hay kết hợp với các vị thuốc khác hợp thành bài thuốc.
Bộ phận sử dụng
Thân rễ của cây tắc kè đá (Tên dược liệu là Rhizoma Drynariae Bonii) - được thu hoạch để làm thuốc.
Dược động học:
Dược lực học:
Xem thêm
L-valine là gì?
L-valine là đồng phân đối hình L của valine, hoạt chất có vai trò như một chất dinh dưỡng; vi chất dinh dưỡng; chất chuyển hóa tảo; chất chuyển hóa Saccharomyces cerevisiae; chất chuyển hóa ở người; chất chuyển hóa Escherichia coli và chất chuyển hóa của chuột. Vai trò của L-Valine là axit amin thiết yếu, có hoạt tính kích thích. Hoạt chất này thúc đẩy sửa chữa mô và phát triển cơ bắp. Thành phần này là một axit amin họ pyruvate có thể tạo protein, một valine và một axit amin L-alpha. Hoạt chất là một cơ sở liên hợp của một L-valinium, axit liên hợp của một L-valinat. Đồng thời L-valine cũng là một chất đồng phân đối quang của một D-valine, đồng phân của một zwitterion L-valine.
Điều chế sản xuất
Thủy phân protein, được tổng hợp bằng phản ứng của amoniac với axit alpha-chloroisovaleric. Các axit amin được kết hợp trong protein của động vật có vú là axit amin alpha, ngoại trừ proline, là axit alpha-imino. Điều này có nghĩa là chúng có một nhóm cacboxyl, một nhóm nitơ amin và một chuỗi bên được gắn với một cacbon alpha trung tâm.
Sự khác biệt về chức năng giữa các axit amin nằm trong cấu trúc của chuỗi bên của chúng. Ngoài sự khác biệt về kích thước, các nhóm phụ này mang điện tích khác nhau ở pH sinh lý (ví dụ, không phân cực, không tích điện nhưng có cực, tích điện âm, tích điện dương); một số nhóm kỵ nước (ví dụ, chuỗi phân nhánh và các axit amin thơm) và một số ưa nước (hầu hết các nhóm khác). Các chuỗi bên này có vai trò quan trọng đối với cách thức ổn định các bậc cao hơn của cấu trúc protein và là những bộ phận thân thiết của nhiều khía cạnh khác của chức năng protein.
Cơ chế hoạt động
L-valine được hấp thụ từ ruột non bằng quá trình vận chuyển tích cực phụ thuộc natri. Nồng độ trong máu và mô của các axit amin chuỗi nhánh (BCAA) bị thay đổi do một số bệnh và trạng thái sinh lý bất thường, bao gồm bệnh đái tháo đường, rối loạn chức năng gan, đói, suy dinh dưỡng protein-calo, nghiện rượu và béo phì. Những điều kiện này và các điều kiện khác đôi khi tạo ra những thay đổi mạnh mẽ trong các bể BCAA trong huyết tương.
Mặc dù các axit amin tự do hòa tan trong dịch cơ thể chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng khối lượng axit amin của cơ thể, nhưng chúng rất quan trọng đối với việc kiểm soát dinh dưỡng và trao đổi chất của protein trong cơ thể... Mặc dù ngăn huyết tương dễ lấy mẫu nhất, nhưng nồng độ của hầu hết các axit amin cao hơn trong các bể nội bào của mô.
Thông thường, các axit amin trung tính lớn, chẳng hạn như leucine và phenylalanin, về cơ bản ở trạng thái cân bằng với huyết tương. Những thứ khác, đặc biệt là glutamine, axit glutamic và glycine, tập trung nhiều hơn từ 10-50 lần trong vùng nội bào. Sự thay đổi chế độ ăn uống hoặc tình trạng bệnh lý có thể dẫn đến những thay đổi đáng kể về nồng độ của các axit amin tự do riêng lẻ trong cả hồ huyết tương và mô.
Sau khi ăn vào, protein bị biến tính bởi axit trong dạ dày, nơi chúng cũng bị phân cắt thành các peptit nhỏ hơn bởi enzim pepsin, được kích hoạt bởi sự gia tăng axit trong dạ dày xảy ra khi cho ăn. Sau đó, protein và peptit sẽ đi vào ruột non, nơi các liên kết peptit bị thủy phân bởi nhiều loại enzym. Các enzym đặc hiệu liên kết này bắt nguồn từ tuyến tụy và bao gồm trypsin, chymotrypsins, elastase và carboxypeptidases.
Sau đó, hỗn hợp kết quả của các axit amin tự do và các peptit nhỏ được vận chuyển vào các tế bào niêm mạc bởi một số hệ thống chất mang đối với các axit amin cụ thể và đối với các di - và tri-peptit, mỗi loại cụ thể đối với một số cơ chất peptit giới hạn. Sau khi thủy phân nội bào của các peptit được hấp thụ, các axit amin tự do sau đó được tiết vào máu cổng bởi các hệ thống chất mang cụ thể khác trong tế bào niêm mạc hoặc tiếp tục được chuyển hóa trong chính tế bào. Các axit amin được hấp thụ sẽ đi vào gan, nơi một phần của các axit amin được tiếp nhận và sử dụng; phần còn lại đi vào hệ tuần hoàn và được sử dụng bởi các mô ngoại vi.
Sự tiết protein vào ruột vẫn tiếp tục ngay cả trong điều kiện cho ăn không có protein, và lượng nitơ mất đi trong phân (tức là nitơ bị mất khi vi khuẩn trong phân) có thể chiếm 25% lượng nitơ mất đi bắt buộc. Trong hoàn cảnh ăn kiêng này, các axit amin được tiết vào ruột dưới dạng thành phần của các enzym phân giải protein và từ các tế bào niêm mạc bong tróc là nguồn axit amin duy nhất để duy trì sinh khối vi khuẩn đường ruột... Các con đường mất axit amin nguyên vẹn khác là qua nước tiểu và qua da và rụng tóc. Những tổn thất này là nhỏ so với những tổn thất được mô tả ở trên, nhưng vẫn có thể có tác động đáng kể đến các ước tính về yêu cầu, đặc biệt là trong tình trạng dịch bệnh.
Collagen là gì?
Collagen là một loại protein cứng, dạng sợi và không hòa tan. Chúng rất dồi dào khi chiếm tới 1/3 lượng protein của cơ thể. Hầu hết các phân tử của collagen được liên kết với nhau nhằm tạo thành các sợi mỏng và dài. Collagen được xem như một loại keo dán, giữ cho tất cả các mô tế bào dính chặt vào nhau.
Collagen mang lại rất nhiều lợi ích cho cơ thể con người, không chỉ giúp da khỏe mạnh và đàn hồi mà còn giúp hỗ trợ xương, dây chằng, cơ bắp, sụn cũng như các cơ quan nội tạng. Nhiều chế phẩm collagen còn được sử dụng trong điều trị đau khớp kết hợp với nhiều loại viêm khớp và phẫu thuật; điều trị đau lưng, đau cổ và đau sau chấn thương.
Có hai loại collagen:
-
Collagen nội sinh: Do cơ thể chúng ta tự tổng hợp, loại collagen này đảm nhận một số chức năng quan trọng. Vì thế, việc suy giảm collagen nội sinh sẽ có liên quan tới một số vấn đề về sức khỏe.
-
Collagen ngoại sinh: Đây là loại collagen tổng hợp từ một nguồn bên ngoài cơ thể.
Thành phần của collagen có ít nhất 16 loại và trong đó có 4 loại chính, bao gồm:
-
Loại I: Được cấu tạo từ các sợi dày đặc và chiếm 90% lượng collagen trong cơ thể. Thành phần này góp phần tạo nên cấu trúc của gân, sụn sợi, mô liên kết, răng, cấu trúc da và xương.
-
Loại II: Được tạo ra từ các sợi lỏng lẻo hơn và có trong sụn đàn hồi và đệm khớp.
-
Loại III: Loại này có tác dụng hỗ trợ cấu trúc của khối cơ bắp, động mạch,...
-
Loại IV: Thành phần này có trong da và nó có tác dụng hỗ trợ quá trình thanh lọc.
Điều chế sản xuất collagen
Các sản phẩm chức năng bổ sung collagen trên thị trường hiện nay phần lớn đều có nguồn gốc từ động vật, đặc biệt là lợn, bò và cá. Thông thường, các thực phẩm bổ sung chứa collagen loại I, II, III hoặc hỗn hợp cả ba loại. Collagen được cung cấp cho cơ thể chủ yếu dưới các dạng sau:
-
Collagen thủy phân: Còn được gọi là collagen hydrolyzate hoặc collagen peptide, được chia thành các đoạn protein nhỏ hơn gọi là axit amin;
-
Gelatin: Collagen trong gelatin chỉ bị phân hủy một phần thành các axit amin.
-
Nguyên sơ: Ở dạng thô - protein collagen vẫn còn nguyên.
Trong số ba dạng nêu trên, collagen thủy phân được cơ thể hấp thụ hiệu quả nhất. Nghĩa là, collagen dưới bất kỳ dạng nào được đưa vào cơ thể đều được thủy phân thành các axit amin thì cơ thể mới có thể hấp thụ dễ dàng để xây dựng collagen và các dạng protein cần thiết khác trong các mô cơ quan.
Collagen trên thực tế có thể tự tổng hợp thông qua sử dụng các axit amin từ các loại thực phẩm giàu protein. Tuy nhiên, để tăng cường lượng collagen và các lợi ích khác cho cơ thể thì bạn cần phải bổ sung thêm chúng.
Cơ chế hoạt động
Collagen bắt nguồn từ các nguyên bào sợi, là những tế bào da chuyên bào chuyên biệt nằm dưới lớp trung bì có chức năng sản xuất ra các sợi, mà chủ yếu là Collagen, elastin (protein giúp da có thể hồi phục lại).
Khi nhận được tín hiệu sản xuất collagen, nguyên bào sợi sẽ kết hợp những thành phần acid amin cần thiết lại dưới xúc tác của Vitamin C và một số chất khác tổng hợp ra những tiểu đơn vị collagen ngắn được gọi là procollagen.
Sau khi được chuyển ra khỏi tế bào sợi, những đơn vị này kết hợp với nhau để tạo thành những phân tử collagen hoàn chỉnh, tiếp tục xoắn lại trở thành các loại sợi, xây dựng kết cấu cho làn da, xương, mạch máu, cơ bắp và nhiều bộ phận khác.
Arginine là gì?
Arginine là một loại axit amin α dùng trong quá trình sinh tổng hợp protein, thành phần chứa một nhóm α-amino, một nhóm axit α-carboxylic.
Trong cơ thể con người, Arginine được phân loại là axit amin nửa thiết yếu hoặc thiết yếu nên tùy vào giai đoạn phát triển cũng như tình trạng sức khỏe của từng người mà có cần bổ sung Arginine hay không.
Trong các sản phẩm mỹ phẩm, các nhà sản xuất bổ sung hoạt chất Arginine vào công thức với mục đích bảo vệ da khỏi các gốc tự do, tăng cường hydrat hóa da và tăng cường sản xuất collagen.
Người khỏe mạnh chỉ cần bổ sung Arginine thông qua cả các loại thực phẩm chứa protein. Trong cơ thể, Arginine được tổng hợp từ glutamine qua trung gian citrulline.
Điều chế sản xuất
Năm 1886, nhà hóa học người Đức Ernst Schulze lần đầu tiên phân lập chất Arginine từ cây lupin và cây bí ngô. Arginine là một axit alpha-amino được sử dụng trong quá trình sinh tổng hợp protein. Ngoài việc tổng hợp protein, Arginine còn giải phóng oxit nitric trong máu.
Cơ chế hoạt động
Arginine có khả năng tác động lên gan và mang đến công dụng hỗ trợ sản xuất oxide nitric. Arginine giúp tổng hợp protein và nitơ trong cơ thể; đồng thời còn có vai trò quan trọng trong phân chia tế bào. Với những đặc tính như thế, Arginine sẽ giúp chữa lành vết thương, loại bỏ amoniac ra khỏi cơ thể, giúp nâng cao chức năng miễn dịch và giải phóng hormone, điều hòa huyết áp.
Eucalyptus Oil là gì?
Eucalyptus là loại cây chúng ta thường gọi là cây bạch đàn (hay khuynh diệp). Từ lâu, Eucalyptus được biết đến có tác dụng chữa nhiều loại bệnh, trong đó lá bạch đàn có thể trị nhiễm trùng, sốt, đau bụng, giảm ho, bệnh đường hô hấp, hen suyễn, lao phổi, viêm xương khớp, đau khớp, mụn trứng cá cùng rất nhiều các bệnh lý khác, thậm chí cả ung thư.
Eucalyptus oil chính là loại dầu được chưng cất từ lá cây khuynh diệp. Thành phần của tinh dầu khuynh diệp là cineole (hay còn gọi là eucalyptol). Eucalyptus oil qua nhiều nghiên cứu cho thấy có tác dụng vô cùng hiệu quả trong giảm sưng, giảm đau qua cơ chế điều chỉnh với đáp ứng miễn dịch. Tinh dầu từ cây khuynh diệp còn có tác dụng kháng khuẩn, ức chế ho.
Eucalyptus oil pha loãng có thể dùng uống giúp hỗ trợ trị các bệnh về đường hô hấp (giảm ho, trị viêm phế quản, đau xoang và viêm, hen suyễn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD, nhiễm trùng hô hấp…). Bên cạnh đó, Eucalyptus oil còn dùng như thuốc long đờm trong điều trị ho, sát trùng, hạ sốt và còn là thành phần của một số dung dịch xông hơi. Ngoài ra, Eucalyptus oil cũng có tác dụng điều trị vết thương, bỏng, loét và ung thư.
Nhiều người còn dùng tinh dầu khuynh diệp trong điều trị đau khớp, nhiễm herpes cơ quan sinh dục, nghẹt mũi, ngừa côn trùng cắn. Trong nha khoa, tinh dầu khuynh diệp là thành phần trong một số sản phẩm nha khoa.
Điều chế sản xuất
Lá khuynh diệp sau khi được sấy khô, đem nghiền nát và chưng cất để giải phóng tinh dầu. Sau khi dầu đã được chiết xuất tinh dầu, người dùng phải pha loãng tinh dầu trước khi sử dụng.
Acrylates Copolymer là gì?
Acrylates Copolymer là một loại polyme của chất đồng trùng hợp carboxyl hóa acrylic có trọng lượng phân tử cao. Thuộc hợp chất cao phân tử kỵ nước, Acrylates Copolymer thường được sử dụng với vai trò chống thấm trong mỹ phẩm. Acrylates Copolymer tồn tại ở dạng bột mịn, màu trắng, tan trong dầu.
Sự an toàn của Acrylates Copolymer có chứa monome axit acrylic đã được đánh giá bởi Hội đồng chuyên gia đánh giá thành phần mỹ phẩm (CIR). Acrylates Copolymer là chất an toàn để sử dụng trong mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân.
Cơ chế hoạt động của Acrylates Copolymer
Acrylates Copolymer có khả năng hấp thụ sự bài tiết của da, do vậy giảm bớt độ bóng của da và tạo ra bề mặt da được cải thiện cho việc trang điểm. Thành phần này cũng tạo cảm giác dễ chịu với các chất dùng trong mỹ phẩm và giúp giảm bớt bất kì cảm giác nhờn của sản phẩm mang lại.
Caprylic acid là gì?
Caprylic acid là một axit béo có ở sữa mẹ, dầu dừa và sữa bò. Caprylic acid (Axit caprylic) có khả năng kháng khuẩn, kháng nấm, vi-rút và chống viêm. Thành phần còn là một loại axit béo bão hòa có lợi. Caprylic acid có thể ngăn ngừa nhiễm trùng đường tiết niệu, nấm candida, nhiễm trùng bàng quang, nhiễm trùng miệng và và viêm nướu kể cả các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Thời gian gần đây, hoạt chất đã được biết đến rộng rãi nhờ tác dụng kháng nấm. Một công dụng khác cũng đặc biệt của thành phần là giúp cho cơ quan tiêu hóa và sinh sản hoạt động tốt.
Caprylic có nguồn gốc từ dầu dừa và glycerin. Thành phần caprylic/capric triglyceride chứa lượng axit béo cao giúp da giữ ẩm, củng cố lượng nước trong da làm cho da trở nên mềm mại. Caprica/capric triglyceride cũng có tính năng như một chất tạo độ trượt cho mỹ phẩm. Hoạt chất thường được kết hợp với dimethicone PEG/PPG để tạo ra công thức nhũ tương như ý muốn, cho phép các sản phẩm dễ bôi lên da, tạo cảm giác da mượt hơn.
Điều chế sản xuất
Axit caprylic (axit octanoic, C8: 0) thuộc nhóm axit béo no chuỗi trung bình, chất này bắt nguồn từ các sản phẩm sữa, dầu dừa… có nguồn gốc tự nhiên. Đặc tính vật lý và hóa học của MCFAs chuyển hóa khác biệt với đặc tính của axit béo bão hòa chuỗi dài (LCFAs ≥ 12 cacbon). Trong những nghiên cứu nhiều năm gần đây cho thấy hoạt chất còn có tác dụng sinh lý giúp chế độ ăn kiếng được thuận lợi hơn.
Gần đây, axit caprylic, octanoylate ghrelin, hormone peptide được biết đến có tác dụng gây orexigenic. Thông qua liên kết cộng hóa trị của hoạt chất với peptit ghrelin, axit caprylic thể hiện một vai trò mới nổi và cụ thể trong việc điều chỉnh các chức năng sinh lý được điều chỉnh bởi ghrelin được octanoyl hóa. Trong chế độ ăn uống, thành phần axit caprylic người ta còn nghi ngờ là có khả năng cung cấp enzyme ghrelin O-acyltransferase (GOAT) với đồng cơ chất octanoyl-CoA một quá trình cần thiết của việc biến đổi acyl của ghrelin.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng việc giảm mức ghrelin được octanoyl hóa trong tuần hoàn thông qua việc ức chế hoạt động GOAT, hoặc đơn giản bằng cách điều chỉnh chất nền C8: 0, có thể tạo thành một chiến lược điều trị chống lại bệnh béo phì. Cả axit caprylic trong chế độ ăn uống và hoạt động GOAT có thể thực sự quan trọng để điều chỉnh nồng độ và chức năng ghrelin được octanoyl hóa.
Đánh giá này nêu bật những phát hiện gần đây trong lĩnh vực dinh dưỡng.,hoặc đơn giản bằng cách điều chỉnh sự sẵn có của chất nền C8: 0. Hoạt chất này có thể tạo thành một chiến lược điều trị bệnh béo phì. Cả axit caprylic trong chế độ ăn uống và hoạt động GOAT thực sự quan trọng để điều chỉnh nồng độ và chức năng ghrelin được octanoyl hóa.
Cơ chế hoạt động
Axit caprylic, hoạt động như một hợp chất ketogenic và được cho là có khả năng vượt qua sự suy giảm chuyển hóa năng lượng. Cơ chế này đã được quan sát thấy ở bệnh nhân AD (Thaipisuttikul và Galvin vào năm 2012). Bệnh nhân AD dường như bị giảm sử dụng glucose trong thần kinh trung ương, đặc biệt là người mang alen ApoE4 (Ohnuma và cộng sự, 2016). Chế độ ăn ketogenic đã được chứng minh là có thể cải thiện nhận thức biểu hiện ở bệnh nhân AD và những phát hiện này là cơ sở cho sự phát triển của thực phẩm y tế ketogenic.
Isohexadecane là gì?
Isohexadecane thuộc nhóm parafin hoặc ankan, là một hydrocacbon mạch nhánh có 16 nguyên tử cacbon. Isohexadecane tồn tại ở dạng chất lỏng trong suốt nhẹ nhàng và rất mịn, không màu lẫn không mùi.
Isohexadecane thường được sử dụng trong các sản phẩm kem nền, kem chống nắng, dưỡng môi, khử mùi, tẩy trang… với vai trò là dung môi và có khả năng giúp làn da được mịn đẹp (làm mềm). Kết hợp cùng silicone trong các sản phẩm trang điểm, Isohexadecane giúp mang lại cảm giác bóng khỏe, mướt mịn như nhung. Isohexadecane còn là thành phần loại bỏ bụi bẩn, dầu thừa cũng như lớp trang điểm trên da rất hiệu quả.
Điều chế sản xuất
Isohexadecane là kết quả của quá trình kiềm hóa, kết hợp hóa học của hai phân tử hydrocarbon nhẹ để tạo thành một phân tử nặng hơn. Quá trình này liên quan đến phản ứng của buten với sự có mặt của chất xúc tác axit mạnh, chẳng hạn như axit sulfuric hoặc hydrofluoric. Sản phẩm cuối cùng là một isoparaffin đa chức năng nặng hơn, chính là Isohexadecane.
Lutein là gì?
Lutein là một carotenoid có trong tự nhiên được tổng hợp bởi thực vật, được tìm thấy dễ dàng trong các nguồn thực phẩm hàng ngày như rau dền, rau khoai lang, súp lơ xanh, cải xoăn, và cà rốt vàng. Lutein có công thức hóa học là C40H56O2, được xếp vào phân loại chất chống oxy hóa mạnh mẽ cùng với Zeaxanthin bởi chúng cùng có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại tác nhân có hại, phân tử không ổn định và các gốc tự do.
Công thức hóa học của Lutein
Với đặc tính chống oxy hóa mạnh, Lutein giúp bảo vệ da chống lại các gốc tự do có hại có trong môi trường. Đây chính là đặc điểm nổi trội nhất của Lutein , do đó hợp chất này được phái đẹp khá ưa chuộng và bổ sung trong bữa ăn hàng ngày. Đặc biệt, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng bằng cách giảm stress oxy hóa xảy ra trên da, việc thoa Lutein lên da giúp cải thiện độ ẩm cho da và chống lão hóa do tác nhân có hại và yếu tố tuổi tác.
Nhờ công dụng tuyệt vời, thành phần Lutein được tìm thấy trong nhiều loại mỹ phẩm dưỡng da cho phái đẹp. Để tận dụng triệt để quá trình chống oxy hóa, các dòng sản phẩm mỹ phẩm thường kết hợp các lợi ích của nhiều chất carotenoid trong đó có sự kết hợp giữa Lutein và Zeaxanthin.
Lutein giúp cải thiện khả năng giữ ẩm cho da và chống lão hóa tuổi tác
Điều chế và sản xuất Lutein
Bột Lutein vi năng được điều chế bằng phương pháp sấy phun sử dụng vật liệu bao gói là maltodextrin có hiệu suất bao gói cao (86,4%), tan tốt trong nước, có khả năng đáp ứng các chỉ tiêu chất lượng của Lutein trong thực phẩm.
Cơ chế hoạt động của Lutein
Lutein là hợp chất Carotenoid được phát hiện nhiều nhất trong não và điểm vàng của mắt. Trong cơ thể người, carotenoid đóng vai trò là chất chống oxy hóa cũng như là thành phấn thiết yếu cấu tạo nên cơ thể. Tuy nhiên, trở ngại của cơ thể người là không có khả năng tự tổng hợp Lutein mà phải bổ sung hợp chất này trong quá trình ăn uống và bổ sung các loại rau xanh, hoa quả có màu đậm hoặc qua các chất bổ sung khác.
Với da, Lutein đóng vai trò điển hình là chất chống oxy hóa, giúp da chống lại các tổn thương do gốc tự do gây ra bởi ánh sáng xanh hoặc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời hoặc do chế độ ăn thiếu dinh dưỡng, không khoa học.
Lutein được tìm thấy trong rau dền, rau khoai lang, súp lơ xanh, cải xoăn và cà rốt vàng
Myristic Acid là gì?
Myristic Acid là một acid béo bão hòa thu được trong quá trình nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Các loại bơ đậu, dầu dừa, dầu cọ, hạnh nhân… có thành phần tự nhiên chứa hàm lượng dồi dào Myristic Acid.
Tồn tại ở dạng tinh thể rắn, có màu trắng, Myristic Acid có thể tan trong nước, dung môi hữu cơ, ethanol, DMSO…
Người ta sử dụng Myristic Acid làm nguyên liệu thô, chất hoạt động bề mặc cũng như là sản xuất chất nhũ hóa. Trong các loại este, hương hoặc công thức mỹ phẩm, Myristic Acid hoạt động với khả năng nhũ hóa và làm chất hoạt động.
Điều chế sản xuất Myristic Acid
Myristic Acid được tổng hợp tự nhiên trong bơ của cây nhục đậu khấu, ở phần lớn các động vật, chất béo thực vật.
Myristic Acid được sản xuất bằng phương pháp tổng hợp hóa học, điện phân methyl hydrogen adipate và acid decanoic acid hoặc bằng quá trình oxy hóa Maurer của ancol myristic.
Carbomer là gì?
Carbomer là nguyên liệu quan trọng và rất quen thuộc trong công thức mỹ phẩm. Carbomer bao gồm những hợp chất cao phân tử có liên kết chéo của acid acrylic với trong lượng khoảng từ 3-4 triệu Dalton được tạo thành bằng cách polymer hóa acid acrylic trong ethyl acetate, cyclohexane và các tác nhân có khả năng tạo liên kết chéo như pentaerythritol polyallylether hay polyallyl sucrose.
Bột Carbomer gồm có hạt chính xen kẽ các hạt liên kết, trong đó kích thước hạt chính là từ 50-200 nm còn kích thước hạt liên kết vào khoảng từ 2-7 micron. Bột Carbomer khi phân tán vào trong nước tạo ra hỗn hợp có độ pH là 3, còn khi trung hòa lại thì độ pH hỗn hợp khoảng 6-10. Các tiểu phân cũng nở ra, tăng độ nhớt do lực đẩy tĩnh điện, muối có thể làm giảm độ nhớt vì nó có khả năng đẩy tĩnh điện.
Có chỉ số khúc xạ phù hợp nên Carbomer cũng có khả năng tạo gel trong cồn, nước. Đặc tính của Carbomer là làm dày và làm đặc; nếu dùng thành phần này ở tỷ lệ thấp sẽ điều chỉnh được độ nhớt khá ổn định. Vì thế, Carbomer được sử dụng trong các công thức bào chế mỹ phẩm. Ngoài ra, Carbomer còn góp mặt trong sản phẩm tã dùng một lần như một chất siêu thấm vì nó có thể liên kết chéo mở rộng.
Điều chế sản xuất Carbomer
Các Carbomer là các polymer tổng hợp, liên kết chéo, cao phân tử của acid acrylic. Những polymer acid acrylic này được liên kết chéo với allyl sucrose hoặc allyl pentaerythritol. Dung môi diễn ra quá trình polymer hóa trước đây là benzen (một dung môi độc hại và ô nhiễm môi trường).
Hiện nay, các nhà sản xuất thường sử dụng ethyl acetate hoặc một đồng dung môi cyclohexane–ethyl acetate để sản xuất các sản phẩm thương mại của Carbomer. Những dung môi này được đánh giá là an toàn và thân thiện môi trường hơn.
Các polymer như Carbopol ETD và Carbopol Ultrez được sản xuất trong các hỗn hợp đồng dung môi với sự trợ giúp của một chất trùng hợp độc quyền của nhà sản xuất.
Cơ chế hoạt động của Carbomer
Khi Carbomer được đặt trong dung dịch nước ở pH trung tính, nhiều chuỗi bên sẽ mất proton và thu được điện tích âm. Do phản ứng này, Carbomers có thể hấp thụ, giữ nước và trương lên gấp nhiều lần thể tích ban đầu của chúng. Đây là lý do tại sao nó được coi là chất tăng cường kết cấu và được sử dụng để thêm độ đặc cho các sản phẩm đặc biệt là các công thức giống như gel.
Nhờ khả năng loại bỏ chất rắn không hòa tan trong chất lỏng, Carbomers được sử dụng để giữ ổn định nhũ tương khỏi sự phân tán thành phần dầu và chất lỏng. Carbomers có thể kiểm soát tính nhất quán của mỹ phẩm, sản phẩm chăm sóc cá nhân khác.
Các công thức của những sản phẩm như dầu gội dầu xả, lotion, kem dưỡng ẩm cho da trở nên đa dạng hơn, mịn hơn và đặc hơn nhờ có bổ sung chất Carbomers.
Methyl Hydroxybenzoate là gì?
Methyl Hydroxybenzoate là một loại paraben thường được sử dụng làm chất bảo quản để giúp sản phẩm có thời hạn sử dụng lâu hơn. Chúng được thêm vào thực phẩm hoặc mỹ phẩm để ngăn chặn sự phát triển của nấm mốc và các vi khuẩn có hại khác.

Methyl Hydroxybenzoate
Điều chế sản xuất
Trong khi hầu hết Methyl Hydroxybenzoate mà chúng ta nhìn thấy và sử dụng đều được sản xuất tổng hợp, Methyl Hydroxybenzoate tồn tại trong tự nhiên, thường được tìm thấy trong thực vật ở dạng Methyl Hydroxybenzoate để bảo vệ thực vật, do đặc tính chống nấm, chống vi khuẩn.
Cơ chế hoạt động
Cơ chế của Methyl Hydroxybenzoate có thể liên quan đến suy ty thể phụ thuộc vào sự cảm ứng chuyển đổi tính thấm màng kèm theo sự khử cực của ty thể và sự cạn kiệt ATP của tế bào thông qua sự tách rời của quá trình phosphoryl hóa oxy hóa.
Phenol là gì?
Phenol là những hợp chất hữu cơ thơm trong phân tử có nhóm OH liên kết trực tiếp với nguyên tử C của vòng benzen. Phenol là hóa chất màu trắng, dạng tinh thể rắn dễ bay hơi. Khi sử dụng phenol phải cẩn thận vì nó có tính axit khi tiếp xúc với da có thể bị bỏng.
Điều chế hoạt động
Lần đầu tiên phenol được chiết xuất từ nhựa than đá. Ngày nay phenol được sản xuất từ nguồn nguyên liệu có nguồn gốc từ dầu mỏ. Nguồn phenol được lấy từ sản phẩm chưng cất than đá là chủ yếu. Người ta cũng có thể sử dụng benzen để điều chế. Nhu cầu sử dụng phenol này càng cao, khoảng khoảng 7 tỷ kg/năm.
Cơ chế hoạt động
Cơ chế tác động của các hợp chất phenol là oxy hoá các thành phần tế bào, bất hoạt protein, diệt khuẩn có tính chọn lọc, biến tính các protein.
Sản phẩm liên quan